Dịch tễ học – Phần 3

Vào đầu thế kỷ 20, các phương pháp toán học được đưa vào dịch tễ học bởi Ronald Ross, Janet Lane-Claypon, Anderson Gray McKendrick và những người khác [16] [17] [18] [19]

Một bước đột phá nữa là ấn bản năm 1954 về kết quả của một nghiên cứu của các bác sĩ người Anh, do Richard Doll và Austin Bradford Hill, đã hỗ trợ thống kê rất mạnh mẽ cho mối liên hệ giữa hút thuốc lá và ung thư phổi.

Vào cuối thế kỷ 20, với sự tiến bộ của khoa học y sinh học, một số dấu phân tử trong máu, các biospecimens và môi trường khác được xác định là dự báo về sự phát triển hoặc nguy cơ của một bệnh nào đó. Nghiên cứu dịch tễ học để kiểm tra mối quan hệ giữa các công cụ đánh giá sinh học được phân tích ở cấp độ phân tử và bệnh được đặt tên là “dịch tễ học phân tử”. Cụ thể, “dịch tễ học di truyền học” đã được sử dụng cho dịch tễ học về sự biến đổi di truyền và bệnh tật về dòng mầm. Sự biến đổi di truyền thường được xác định bằng cách sử dụng DNA từ bạch cầu bạch cầu. Từ những năm 2000, các nghiên cứu liên kết gen (GWAS) thường được thực hiện để xác định các yếu tố nguy cơ di truyền đối với nhiều bệnh và tình trạng sức khoẻ.

Trong khi hầu hết các nghiên cứu dịch tễ học phân tử vẫn đang sử dụng các hệ thống phân loại và chẩn đoán bệnh thông thường thì ngày càng nhiều người nhận ra rằng sự tiến hoá của bệnh thể hiện các quá trình không đồng nhất vốn khác nhau giữa người với người. Về mặt khái niệm, mỗi cá nhân đều có một quy trình bệnh độc đáo khác với bất kỳ cá thể nào khác (“nguyên tắc bệnh độc nhất”), [20] [21] xem xét tính duy nhất của exposome (tổng số các phơi nhiễm nội sinh và ngoại sinh / môi trường) tiến trình bệnh lý phân tử trong từng cá nhân. Các nghiên cứu để kiểm tra mối quan hệ giữa sự phơi nhiễm và dấu hiệu bệnh lý phân tử của bệnh (đặc biệt là ung thư) ngày càng trở nên phổ biến trong suốt những năm 2000. Tuy nhiên, việc sử dụng các bệnh lý phân tử trong dịch tễ học đặt ra những thách thức độc đáo bao gồm thiếu hướng dẫn nghiên cứu và các phương pháp thống kê chuẩn, và sự thiếu vắng các chuyên gia liên ngành và các chương trình đào tạo [22]. Hơn nữa, khái niệm về sự không đồng nhất của bệnh dường như mâu thuẫn với tiền đề lâu dài của dịch tễ học rằng các cá nhân có cùng tên bệnh có các nguyên nhân và bệnh lý tương tự. Để giải quyết những vấn đề này và tiến bộ khoa học về sức khoẻ dân số trong kỷ nguyên của ngành y học phân tử, “bệnh lý phân tử” và “dịch tễ học” được tích hợp để tạo ra một lĩnh vực liên ngành mới là “dịch tễ học phân tử bệnh học” (MPE) [23] [24] như là “dịch tễ học về bệnh lý phân tử và sự không đồng nhất của bệnh”. Trong MPE, các nhà điều tra phân tích các mối quan hệ giữa; (A) môi trường, chế độ ăn uống, lối sống và các yếu tố di truyền; (B) sự thay đổi trong các phân tử tế bào hoặc ngoài tế bào; và (C) tiến hóa và tiến triển của bệnh. Sự hiểu biết tốt hơn về tính không đồng nhất của bệnh lý bệnh sẽ góp phần làm rõ nguyên nhân gây bệnh. Cách tiếp cận MPE có thể được áp dụng không chỉ đối với các bệnh ung thư tân mà còn các bệnh không phải là ung thư. [25] Khái niệm và mô hình của MPE đã trở nên phổ biến trong những năm 2010

Các loại nghiên cứu [sửa]
Bài chi tiết: Thiết kế nghiên cứu
Các nhà nghiên cứu dịch tễ học sử dụng một loạt các thiết kế nghiên cứu từ quan sát đến thực nghiệm và thường được phân loại là mô tả, phân tích (nhằm tiếp tục nghiên cứu các mối liên hệ đã biết hoặc mối quan hệ giả thuyết) và thử nghiệm (một thuật ngữ thường được đánh đồng với các thử nghiệm lâm sàng hoặc cộng đồng về điều trị và các can thiệp khác). Trong nghiên cứu thực nghiệm, tự nhiên được phép “theo học”, như các nhà dịch tễ học quan sát từ bên lề Trái ngược lại, trong các nghiên cứu thực nghiệm, dịch tễ học là người kiểm soát tất cả các yếu tố nhập vào một nghiên cứu trường hợp nhất định [33] Các nghiên cứu dịch tễ học nhằm mục đích, nếu có thể, để lộ mối quan hệ không thiên vị giữa các phơi nhiễm như cồn hoặc hút thuốc lá, các tác nhân sinh học, stress, hoặc hóa chất đối với tử vong hoặc bệnh tật. tin học như một công cụ.

Các nghiên cứu quan sát có hai thành phần, mô tả và phân tích. Các quan sát mô tả liên quan đến “Ai, cái gì, ở đâu và khi nào có sự xuất hiện của nhà nước liên quan đến sức khoẻ”. Tuy nhiên, các quan sát phân tích giải quyết nhiều hơn với ‘làm thế nào’ của một sự kiện liên quan đến sức khoẻ. [33] Dịch tễ học thực nghiệm bao gồm ba loại bệnh án: thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng (thường được sử dụng cho các loại thuốc mới hoặc xét nghiệm ma túy), thử nghiệm đồng ruộng (tiến hành ở những người có nguy cơ mắc bệnh cao) và các thử nghiệm cộng đồng (nghiên cứu về các bệnh có nguồn gốc xã hội). ]

Thuật ngữ “bộ ba dịch tễ” được sử dụng để mô tả giao điểm của Host, Agent và Environment trong việc phân tích sự bùng phát.

Leave a Comment

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Scroll to Top