Khoa học gây bệnh

Tổng quan 
Về mặt lịch sử, bệnh học là một chi nhánh của thực vật học bởi vì, mặc dù nấm có liên quan chặt chẽ với động vật hơn là thực vật, điều này đã không được nhận ra cho đến một vài thập kỷ trước. Các nhà nghiên cứu thần học tiền phong bao gồm Elias Magnus Fries, Christian Hendrik Persoon, Anton de Bary, và Lewis David von Schweinitz.

Nhiều loại nấm sản sinh chất độc, kháng sinh, và các chất chuyển hóa thứ sinh khác. Ví dụ, thực vật độc nhất thế giới (Fusarium toàn cầu) và các độc tố của chúng có liên quan đến sự bùng phát các độc tố gây độc aleukia gây bệnh ở người đã được Abraham Joffe nghiên cứu rộng rãi.

Nấm là nền tảng cho sự sống trên trái đất trong vai trò như những người cộng sinh, ví dụ: dưới dạng mycorrhizae, ký sinh trùng côn trùng và cỏ dại. Nhiều loại nấm có thể phá vỡ các phân tử sinh học phức tạp như lignin, thành phần bền hơn của gỗ và các chất gây ô nhiễm như sinh vật k x khí, dầu mỏ và hydrocarbon thơm đa vòng. Bằng cách phân hủy các phân tử này, nấm đóng một vai trò quan trọng trong chu kỳ các-bon toàn cầu.

Nấm và các sinh vật khác theo truyền thống được biết đến như là nấm, như oomycetes và myxomycetes (mốc xám), thường có ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế và xã hội, vì một số gây bệnh cho động vật (như bệnh histoplasmosis) cũng như thực vật (như bệnh héo ở Hà Lan và vụ lúa ).

Ngoài nấm gây bệnh, nhiều loài nấm rất quan trọng trong việc kiểm soát bệnh cây do các mầm bệnh khác nhau gây ra. Ví dụ, các loài thuộc chi nấm filamento Trichoderma được coi là một trong những tác nhân kiểm soát sinh học quan trọng nhất như một giải pháp thay thế cho các sản phẩm hoá học để quản lý bệnh cây hiệu quả.

Các cuộc họp mặt để tìm các loài nấm thú vị được gọi là “forays”, sau cuộc họp đầu tiên do Câu lạc bộ Fielder tự nhiên của Woolhope tổ chức vào năm 1868 và có tựa đề “Một cuộc rượt đuổi giữa các loài nấm” 

Một số nấm có thể gây bệnh ở người hoặc các sinh vật khác. Nghiên cứu về nấm gây bệnh được gọi là nghiên cứu bệnh lý học y học 

Lịch sử 
Người ta cho rằng con người bắt đầu thu thập nấm như thức ăn vào thời tiền sử. Nấm được viết lần đầu tiên trong các tác phẩm của Euripides (480-406 B.C.). Nhà triết học Hy Lạp Theophrastos của Eresos (371-288 TCN) có lẽ là người đầu tiên cố gắng phân loại thực vật một cách có hệ thống; nấm được coi là cây thiếu một số nội tạng nhất định. Sau đó Pliny the Elder (23-79 TCN), người đã viết về nấm cục trong bộ bách khoa toàn thư Naturalis historia. Từ mycology xuất phát từ tiếng Hy Lạp: μύκης (mukēs), có nghĩa là “nấm” và hậu tố -λογία (-logia), có nghĩa là “nghiên cứu”.

Thời Trung Cổ ít thấy tiến bộ về kiến ​​thức về nấm. Thay vào đó, việc phát minh ra báo in cho phép một số tác giả phổ biến các mê tín dị đoan và quan niệm sai lầm về nấm đã được các tác giả cổ điển lưu giữ. 

“Nấm và nấm cục không phải là thảo mộc, cũng không phải gốc rễ, hoa, hay hạt giống, mà chỉ là nước hoặc đất không cần thiết của cây, hoặc gỗ thối, và những thứ khác thối rữa. Điều này là rõ ràng từ thực tế là tất cả nấm và nấm cục, đặc biệt là nấm và được sử dụng để ăn, phát triển nhất trong thời tiết sấm sét và ướt. “
– Jerome Bock (Hieronymus Tragus), 1552 bệnh học bắt đầu với bài báo 1737 của Pier Antonio Micheli về Nova plantarum genera. Xuất bản tại Florence, công trình nghiên cứu này đã đặt nền móng cho việc phân loại cỏ, rêu và nấm theo hệ thống. Thuật ngữ khoa sinh lý học và bác sĩ nghiên cứu sinh học bổ sung lần đầu tiên được M.J. Berkeley sử dụng vào năm 1836. 

Y học bệnh lý học 
Trong nhiều thế kỷ, một số loại nấm đã được chứng minh là một loại thuốc dân gian ở Trung Quốc, Nhật Bản và Nga . Mặc dù việc sử dụng nấm trong y học dân gian tập trung chủ yếu vào lục địa châu Á, nhưng người dân ở các nơi khác trên thế giới như Trung Đông, Ba Lan, và Belarus đã được ghi nhận bằng cách sử dụng nấm cho các mục đích y học ]. Một số loại nấm, đặc biệt là các polypores như reishi được cho là có thể mang lại nhiều lợi ích cho sức khoẻ. Nghiên cứu nấm thuốc ở Hoa Kỳ hiện đang hoạt động, với các nghiên cứu diễn ra tại Trung tâm Y tế Quốc gia của Thành phố Hope,  cũng như Trung tâm Ung thư Memorial Sloan-Kettering.

Nghiên cứu hiện nay tập trung vào nấm có thể có hoạt động hạ đường huyết, hoạt động chống ung thư, hoạt động chống bệnh, và hoạt động tăng cường hệ miễn dịch. Các nghiên cứu gần đây cho thấy nấm trai tự nhiên có chứa lovastatin làm giảm cholesterol, nấm tạo ra lượng vitamin D lớn khi tiếp xúc với ánh sáng cực tím (UV),  và rằng một số loại nấm có thể là một nguồn taxol trong tương lai. ] Đến nay, penicillin, lovastatin, ciclosporin, griseofulvin, cephalosporin, LSD-25, và statin là những dược phẩm nổi tiếng nhất đã được phân lập từ vương quốc thứ năm của cuộc sống.

Leave a Comment

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Scroll to Top